Thứ Sáu, 6 tháng 5, 2011
Phật Thích Ca Mâu Ni
PHẬT THÍCH
CA MÂU NI
(Buddha Sàkyamuni)
(Buddha Sàkyamuni)
LƯỢC
SỬ.
Trước
đây trên 25 thế kỷ, ở Ấn Độ có vị Thánh xuất thế, đó là đức Phật Thích Ca Mâu
Ni. Khi ấy, xã hội Ấn Độ chia làm bốn đẳng cấp: Bà-la- môn (Brahmanes),
Sát-đế-lỵ (Kastryas), Phệ-xá (Vaisyas) và Thủ-đà (Soudas) đức Phật Thích Ca
sanh trong dòng quý tộc thuộc đẳng cấp thứ hai. Thân sinh Ngài là vua Tịnh Phạn
(Suddodhana) và thân mẫu là hoàng hậu Ma-gia (Maya), ở thành Ca- tỳ-la
(Kapilavatsu). Ngài giáng sanh vào ngày trăng tròn, tháng hai Ấn Độ, nhằm ngày
rằm tháng tư âm lịch Trung Hoa. Tên Ngài là Sĩ-đạt-ta (Sidhartha).
Ra đời
chưa đầy một tháng, Ngài đã mồ côi mẹ, nhờ Di mẫu nuôi dưỡng cho đến trưởng
thành. Năm 19 tuổi, Ngài trốn vua cha vượt thành xuất gia tầm thầy học đạo.
Tương truyền trước khi xuất gia, Ngài đã dạo chơi bốn cửa thành thấy cảnh sanh,
già, bệnh, chết. Từ đó, Ngài ôm lòng thương cảm vô hạn, quyết tìm con đường
giải thoát cho mình và tất cả chúng sanh. Vì thế, Ngài cương quyết ruồng bỏ
ngai vàng và mọi lạc thú ở đời, xuất gia tầm đạo, mặc dầu có lắm người hết lời
khuyên nhủ ngăn can.
Sau khi
xuất gia, Ngài lê bước khắp nơi tìm thầy học đạo. Ngài đã từng tham học với hai
vị sư trứ danh đương thời là A-la-lã-ca-lan (Aralah-Kalama) và Uất-đà-già-la-
ma (Udraka-Kamapu-tar). Nhưng xét đến kết quả đạo lý của họ đều không làm cho
Ngài thỏa mãn.
Sau đó,
Ngài từ giã họ vào rừng sâu tu khổ hạnh sáu năm, mỗi ngày chỉ ăn uống chút ít
đủ duy trì mạng sống, nhưng rốt cuộc cũng chẳng đem lại kết quả gì. Cuối cùng
nhận thấy phương pháp khổ hạnh không phải là con đường chân chánh, Ngài liền từ
bỏ nó, trở lại lối sống bình thường, vận dụng tâm trí quán sát tướng chân thật
của vũ trụ. Một hôm ngày thứ 49 ở dưới cội Bồ-đề, Ngài bừng ngộ thấy rõ chân lý
của cuộc đời, biết được mọi người đều có đủ khả năng giác ngộ và giải thoát
khỏi vòng sanh tử luân hồi.
Sau khi
đã chứng đạo, Ngài không ấp ủ tư lợi riêng mình, liền nhập thế phổ độ chúng
sanh. Từ đó, Ngài du hành thuyết pháp suốt 49 năm, chu du đến một phần ba xứ Ấn
Độ. Những môn đồ được Ngài giáo hóa đông vô kể. Nơi Ngài thường đến và thường
lưu trú là thành Vương Xá (Rajagrha) nước Ma-kiệt-đà (Magadha), thành Phệ-xá-ly
(Vésali), thành Xá-vệ (Shavasti) nước Câu-tát-la (Kosala).
Năm 80
tuổi, nơi rừng Ta-la song thọ (Sala) ngoài thành Câu-thi (Kusin-agara), sau
buổi thuyết pháp cuối cùng, Ngài vào Niết-bàn (Nibbana).
BIỂU
TƯỚNG.
Vào
trong các chùa Phật giáo Bắc tông, ngay giữa chánh điện hoặc thờ một tượng Phật
Thích Ca, hoặc thờ ba tượng ngồi ngang, đức Thích Ca ngự giữa, bên phải đức
Phật Thích Ca là Phật A Di Đà, bên trái là Phật Di Lặc (Phật tương lai). Lối
thờ này tượng trưng tam thế Phật, Phật Thích Ca là Phật hiện tại, Phật Di Đà là
Phật quá khứ, Phật Di Lặc là Phật tương lai. Bất cứ lối thờ nào, đức Thích Ca
đều ngự ở giữa, nên cũng gọi Ngài là đức Trung Tôn. Tượng Phật Thích Ca không
giống người Ấn Độ, mà tùy ở nước nào tạo tượng Ngài giống người nước ấy. Ngài
ngự trên đài sen, hai tay để ấn tam muội, đôi mắt khép lại ba phần tư.
THÂM Ý.
Nhìn sơ
qua hình tượng đức Phật Thích Ca, chúng ta đã thấy những điểm cách xa thực tế.
Tại sao người ta không tạo tượng Ngài thật giống người Ấn Độ, ngồi trên toà cỏ
dưới cội cây Bồ-đề?
Bởi vì
Bắc tông Phật giáo quan niệm đức Phật không phải căn cứ vào con người xác thịt
tầm thường, mà thấy Phật là Pháp thân thường trụ. Hiện thân Thái tử Sĩ-đạt-ta
tu hành thành Phật, chỉ là một giai đoạn, một hóa thân tùy cơ cảm của chúng
sanh thị hiện đấy thôi. Đã là hóa thân tùy cơ cảm thì ở đâu có cảm đức Phật đều
ứng hiện như nguyện để độ họ. Vì thế, ở Việt Nam cảm mộ Phật, Phật sẽ thị hiện
người Việt Nam, ở Trung Hoa cảm mộ Phật, Phật sẽ hiện người Trung Hoa để hóa
độ...
Đó là
tư tưởng siêu thực, không còn thấy Phật ở trong một hình thức cố định nào. Đức
Phật đã đồng hóa theo từng dân tộc, từng chủng loại. Do tư tưởng này, Bắc tông
Phật giáo đối với đức Phật không thấy xa lạ, mà rất gần gủi thân mật và phát
sanh tín ngưỡng "Phật tùy tâm hiện". Ta hãy nghe vị Quốc Sư núi Yên
Tử nói với vua Trần Thái Tông, khi ông này lên núi cầu đạo:
"Núi
vốn không có Phật, chỉ có ở tâm. Lắng tâm mà thấy, đấy gọi là chân Phật. Nay bệ
hạ muốn giác ngộ tâm ấy thì đứng ở trần gian mà thành Phật, không phải khốn khổ
cầu Phật ở ngoài". (Khóa Hư Lục)
Đã tin
Phật tùy tâm hiện, nếu tâm mình tưởng Phật tức là có Phật hiện đến. Do đó phát
sanh tín ngưỡng “Phật hiện cứu khổ mọi người”. Cho nên, những khi lâm tai, mắc
họa, người ta hay thành kính, lễ mễ cầu Phật hiện mách bảo cho phương cách
thoát khỏi tai họa.
Phật
ngự trên đài sen cũng là một ý nghĩa tượng trưng siêu thực. Bởi vì hoa sen được
biểu thị cho đức tánh thanh tịnh và giải thoát. Hoa sen phát xuất trong vũng
bùn nhơ nhớp, mà vẫn tỏa ra mùi hương thanh khiết. Đó là đặc tính không thể tìm
được trong các loài hoa khác. Nằm giữa vũng bùn nhơ nhớp, mà không bị lây nhiễm
mùi hôi hám, trái lại còn đầy đủ hương vị thơm tho, đó mới thật là thanh tịnh.
Vì cái thanh tịnh ngay giữa chỗ ô uế, mới chân thật thanh tịnh. Nếu hoa sen mọc
giữa bãi cát trắng phau, hay trên gò đất khô sạch sẽ, dầu có hương sắc gấp mấy
lần hơn vẫn không được quý trọng. Bởi nó chui từ vũng bùn hôi hám mà lên, lại
giữ được tánh cách thanh khiết, nên mới được mọi người hâm mộ. Đức Phật cũng
thế, trước kia Ngài cũng là một con người như chúng ta, cũng có gia đình, cũng
hưởng giàu sang sung sướng, nhưng con người ấy không bị dục lạc làm ô nhiễm,
không bị sợi dây gia đình trói buộc. Ở trong cảnh nhiễm ô dục lạc mà tâm hồn
Ngài trinh bạch, ngồi trong tù ngục gia đình mà chí Ngài đã vượt ra ngoài vũ
trụ mênh mông. Đức tánh trinh bạch và siêu việt ấy, chỉ có hoa sen mới đủ sức
tượng trưng.
Bắc
tông Phật giáo đặt trọng ý nghĩa “thanh tịnh trong ô nhiễm" nên chủ trương
"phiền não tức Bồ-đề”, “sanh tử tức Niết-bàn". Không thể tìm Bồ-đề
ngoài phiền não, không thể có Niết-bàn ngoài sanh tử. Cứ ngay trong phiền não
chúng ta khéo chuyển sẽ thành Bồ-đề, trong sanh tử khéo chuyển sẽ thành
Niết-bàn. Không chán sợ trốn tránh, không mơ ước mong cầu nơi nào khác. Vì thế,
đi đến chủ trương “tích cực nhập thế”. Bởi vì không thể có đức Phật ngoài chúng
sanh, không thể có cõi Cực-lạc thanh tịnh ngoài cõi Ta-bà uế trược.
Đôi mắt
đức Phât đâm chiêu nhìn xuống là biểu thị quán sát nội tâm. Giáo lý Phật dạy là
giáo lý nội quan luôn luôn phản chiếu nội tâm để tự giác tự ngộ. Tâm mình là
chủ nhân ông của mọi hành động, mọi nghiệp quả. Ngộ được tự tâm là thấy được
nguồn gốc vũ trụ và nhân sanh. Vì thế, Phật giáo chủ trương con người làm chủ
mọi quả báo an lạc hay đau khổ của mình. Muốn tránh quả khổ đau, cầu quả an
lạc, con người phải tự sửa đổi hành vi trong tâm niệm mà hành động nơi tự thân mình.
Một tâm niệm lành, một hành động tốt sẽ đến cho ta kết quả an vui hạnh phúc.
Ngược lại, một tâm niệm ác, một hành động xấu sẽ chuốc lấy kết quả khổ đau về
nơi mình. Chỉ có ta mới đủ thẩm quyền ban phúc giáng họa cho ta. Sự cầu cạnh,
sự van xin nơi tha nhân hay thần linh, nếu có chỉ là phần phụ thuộc không đáng
kể. Cho nên, ta phải quán sát lại ta, để luyện lọc tâm tánh và sửa đổi hành
động của mình. Ách yếu của sự tu hành là phản quán tự tâm. Vua Trần Nhân Tông
hỏi về bổn phận, tông chỉ Thiền, Tuệ Trung Thượng Sĩ đáp:
"Phản
quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc". (Tam Tổ Thực Lục) (soi lại nơi
mình là việc bổn phận, không từ nơi người mà được).
Những
phút sống lại nội tâm đương nhiên đôi mắt đâm chiêu nhìn xuống như khi chúng ta
muốn kiểm soát lại tâm tư hay hành động của mình, dù đi, đứng, ngồi đôi mắt
chúng ta nhất định phải nhìn xuống. Khi chúng ta muốn van xin điều gì với những
người đáng kính bên ngoài dĩ nhiên đôi mắt phải trông lên vị ấy. Vì thế, khi
nhìn lên đôi mắt đức Phật, đôi mắt các vị Thánh của tôn giáo khác, chúng ta có
thể nhận biết tôn giáo nào chủ trương nội quan, tôn giáo nào chủ trương ngoại
quan.
Trên
đảnh đức Thích Ca có cục thịt nổi cao gọi là nhục kế (cục thịt đỏ), để biểu thị
cho trí tuệ tuyệt vời. Theo các kinh Pháp Hoa, Hoa Nghiêm... Trên đảnh đức Phật
có tướng không thể thấy, tướng ấy bậc Bồ-tát từ sơ địa trở lên chỉ thấy được
đôi phần, trừ Phật với Phật mới thấy trọn vẹn. Tướng ấy biểu thị cho Pháp thân
vì chúng sanh không thể thấy nên gọi là "vô kiến đảnh tướng".
Chung
quanh tượng Phật có những tia hào quang sáng chiếu để tiêu biểu ánh sáng trí
tuệ của Phật lúc nào cũng soi sáng thế gian. Theo trong kinh nói chung quanh
đức Phật luôn luôn có hào quang soi sáng một tầm. Bởi vì con người luôn luôn có
một lớp nghiệp bao quanh, nếu nghiệp ác thì hiện lên vầng hắc ám, chúng sanh
trông thấy kinh sợ, nếu nghiệp thiện thì hiện ra ánh sáng trong lành, chúng
sanh trông thấy sanh tâm kính mến. Vì mắt thịt chúng ta quá thô thiển nên không
thể trông thấy rõ ràng, song nếu tinh tế nhận xét cũng có thể nhận biết phần
nào. Như người hiền lành đến trước chúng ta nhìn thoáng gương mặt là ta có cảm
tình ngay. Nếu người dữ đến trước chúng ta, nhìn sơ qua ta tự nhiên nảy sanh ác
cảm liền. Cái linh cảm ấy không phải căn cứ vào hình thức, mà nó siêu hình
thức. Thiết thực nhất là các anh đồ tể khi vào xóm làng bị chó theo đuổi sủa
không thôi, dù họ chỉ đi tay không cũng thế. Cho nên ngày xưa các vị tu hành
đắc đạo, có ai đến tham học, một phen nhìn qua là các Ngài biết phước duyên kẻ
ấy mỏng hay dày, rồi tùy căn cơ giáo hóa. Đức Phật là con người thuần thiện tâm
thanh tịnh, trí sáng suốt thì ánh hào quang bao bọc chung quanh là lẽ đương
nhiên.
Phật
giáo Bắc tông thường thờ tượng Phật Thích Ca sơ sanh. Tượng này hình một hài
nhi đứng trên hoa sen, tay mặt chỉ lên, tay trái chỉ xuống. Đó là biểu thị một
bậc Thánh nhân xuất thế, vừa lọt lòng mẹ đã có những hành động siêu phàm. Và
câu Ngài thốt ra lúc ấy là:
Trên
trời dưới trời,
Chỉ ta hơn hết,
Tất cả thế gian
Sanh, già, bệnh, chết.
Chỉ ta hơn hết,
Tất cả thế gian
Sanh, già, bệnh, chết.
Nghĩa
là từ nhân gian đến các cõi trời, đối với vấn đề sanh, già, bệnh, chết chỉ có
Ngài là người vượt ra và cứu thoát tất cả. Song Bắc tông Phật giáo thường
thường dẫn hai câu đầu thôi, để nhấn mạnh vào chữ "ta" ám chỉ Pháp
thân tuyệt đối, trên trời dưới đất không gì bì kịp.
Đây chỉ
lược giải thích vài đặc điểm trong hình tượng đức Phật Thích Ca. Mong rằng
những khi đến lễ dưới chân tượng Ngài, mỗi người đều ý thức được mình phải làm
gì đối với hình ảnh biểu thị ấy. Sự hữu ích của việc lễ Phật gốc ở chỗ nhận
được thâm ý rồi thể theo đó sống một cuộc đời cao đẹp như Ngài.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)